Tin tức
on Tuesday 19-11-2024 4:46pm
Danh mục: Tin cộng đồng
CNSH. Trần Hồ Khánh Duyên
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), việc chuyển một phôi nang duy nhất được thực hiện rộng rãi vì giảm nguy cơ đa thai, an toàn với sức khỏe của cả mẹ và bé. Gần đây, các chiến lược mới để chọn phôi đã xuất hiện, chẳng hạn như động học hình thái phôi, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT), phân tích biểu hiện gen trong tế bào tích lũy và mức chất chuyển hóa trong môi trường nuôi cấy. Mặc dù có những tiến bộ này, phân loại phôi theo hình thái vẫn là phương pháp chủ yếu để đánh giá chất lượng và lựa chọn phôi.
Sự hình thành phôi nang là một quá trình phức tạp và liên tục liên quan đến các sự kiện chính như tăng sinh phôi bào trong quá trình phân chia, nén chặt và sự phát triển của khoang phôi nang. Kích hoạt bộ gen phôi, xảy ra trong giai đoạn phân chia 4 tế bào đến 8 tế bào, đánh dấu một sự chuyển đổi quan trọng trong sự phát triển phôi nang. Người ta công nhận rộng rãi rằng, phôi lý tưởng để chuyển là phôi giai đoạn 8 tế bào với phôi bào có kích thước đồng đều vào ngày 3, vì độ lệch về số lượng phôi bào có thể làm giảm tỷ lệ làm tổ. Do đó, số lượng phôi bào là một số liệu quan trọng để đánh giá sự phát triển phôi nang, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiềm năng làm tổ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng phôi nang có nguồn gốc từ phôi ngày 3 với số lượng tế bào cao hơn thể hiện tiềm năng phát triển lớn hơn, dẫn đến tăng tỷ lệ làm tổ và trẻ sinh sống. Ngược lại, các nghiên cứu khác cho thấy phôi nang có nguồn gốc từ ít phôi bào thể hiện tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ sinh sống tương đương, mặc dù phôi có tốc độ phân chia nhanh hơn có thể tăng nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra số lượng tế bào trong phôi giai đoạn ngày 3 của phôi nang chất lượng cao như một yếu tố góp phần đánh giá kết quả mang thai lâm sàng trong chu kỳ chuyển phôi trữ và để xác định tác động của số lượng tế bào giai đoạn ngày 3 đối với kết quả mang thai.
Nghiên cứu thực hiện tại Trung Quốc, từ tháng 1/2018 đến tháng 11/2023. Bệnh nhân nữ <38 tuổi. Chuyển đơn phôi nang chất lượng cao sau rã đông, được định nghĩa là phôi nang với điểm Gardner là ≥3BB. Tổng cộng có 574 chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) đáp ứng các tiêu chí trên, tương ứng với 574 chu kỳ điều trị riêng lẻ. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm dựa trên số lượng phôi bào ngày 3 hình thành phôi nang chuyển: Nhóm A (≤6 tế bào, n = 66 chu kỳ), Nhóm B (7-9 tế bào, n = 381 chu kỳ) và Nhóm C (≥10 tế bào, n = 127 chu kỳ). Thứ tự chuyển được ưu tiên dựa trên phân loại phôi nang cho từng bệnh nhân.
So sánh kết quả mang thai giữa ba nhóm cho thấy tỷ lệ phôi nang độ 5 trở lên ở nhóm C (≥10 tế bào) lớn hơn đáng kể so với nhóm A và B (χ2 = 9,099, P = 0,011). Không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy trong tỷ lệ phôi nang độ 3 và 4 giữa các nhóm (χ2 = 4,413, P = 0,110; χ2 = 0,554, P = 0,758). Nhóm C cũng có tỷ lệ phôi nang ngày 5 cao hơn đáng kể so với nhóm A và B (χ2 = 59,615, P = 0,000), trong khi nhóm A có tỷ lệ phôi nang ngày 6 cao hơn đáng kể so với nhóm B và C (χ2 = 59,615, P = 0,000). Tỷ lệ mang thai lâm sàng không khác biệt đáng kể giữa các nhóm (χ2 = 1,344, P = 0,511). Tương tự, không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về tỷ lệ đa thai (χ2 = 0,196, P = 0,906) hoặc tỷ lệ làm tổ (χ2 = 1,344, P = 0,511). Tỷ lệ sảy thai ở nhóm B cao hơn đáng kể so với nhóm A và C (χ2 = 7,464, P = 0,024). Cuối cùng, tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (χ2 = 3,299, P = 0,194).
Những phát hiện của nghiên cứu này chứng minh rằng số lượng phôi bào ngày 3 ảnh hưởng đáng kể đến giai đoạn phát triển và tuổi phôi của phôi nang. Phôi ngày 3 với số lượng phôi bào cao hơn có xu hướng phát triển thành phôi nang chất lượng cao sớm hơn, đặc biệt là vào ngày thứ 5 và đạt được chất lượng phôi nang tốt hơn. Bằng cách tối ưu hóa tuổi phôi, lựa chọn phôi nang ở các giai đoạn khác nhau và tinh chỉnh các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung có khả năng tăng cường tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống.
Nguồn: Li X, Zeng Y, Zhu L, Yang Z, Luo Y, Jia JL. The association between pregnancy outcomes and frozen-thawed embryo transfer cycles based on D3 cell count in high-quality blastocysts. Front Endocrinol (Lausanne). 2024 Oct 18;15:1464313. doi: 10.3389/fendo.2024.1464313. PMID: 39493775; PMCID: PMC11527635.
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), việc chuyển một phôi nang duy nhất được thực hiện rộng rãi vì giảm nguy cơ đa thai, an toàn với sức khỏe của cả mẹ và bé. Gần đây, các chiến lược mới để chọn phôi đã xuất hiện, chẳng hạn như động học hình thái phôi, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT), phân tích biểu hiện gen trong tế bào tích lũy và mức chất chuyển hóa trong môi trường nuôi cấy. Mặc dù có những tiến bộ này, phân loại phôi theo hình thái vẫn là phương pháp chủ yếu để đánh giá chất lượng và lựa chọn phôi.
Sự hình thành phôi nang là một quá trình phức tạp và liên tục liên quan đến các sự kiện chính như tăng sinh phôi bào trong quá trình phân chia, nén chặt và sự phát triển của khoang phôi nang. Kích hoạt bộ gen phôi, xảy ra trong giai đoạn phân chia 4 tế bào đến 8 tế bào, đánh dấu một sự chuyển đổi quan trọng trong sự phát triển phôi nang. Người ta công nhận rộng rãi rằng, phôi lý tưởng để chuyển là phôi giai đoạn 8 tế bào với phôi bào có kích thước đồng đều vào ngày 3, vì độ lệch về số lượng phôi bào có thể làm giảm tỷ lệ làm tổ. Do đó, số lượng phôi bào là một số liệu quan trọng để đánh giá sự phát triển phôi nang, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiềm năng làm tổ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng phôi nang có nguồn gốc từ phôi ngày 3 với số lượng tế bào cao hơn thể hiện tiềm năng phát triển lớn hơn, dẫn đến tăng tỷ lệ làm tổ và trẻ sinh sống. Ngược lại, các nghiên cứu khác cho thấy phôi nang có nguồn gốc từ ít phôi bào thể hiện tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ sinh sống tương đương, mặc dù phôi có tốc độ phân chia nhanh hơn có thể tăng nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra số lượng tế bào trong phôi giai đoạn ngày 3 của phôi nang chất lượng cao như một yếu tố góp phần đánh giá kết quả mang thai lâm sàng trong chu kỳ chuyển phôi trữ và để xác định tác động của số lượng tế bào giai đoạn ngày 3 đối với kết quả mang thai.
Nghiên cứu thực hiện tại Trung Quốc, từ tháng 1/2018 đến tháng 11/2023. Bệnh nhân nữ <38 tuổi. Chuyển đơn phôi nang chất lượng cao sau rã đông, được định nghĩa là phôi nang với điểm Gardner là ≥3BB. Tổng cộng có 574 chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) đáp ứng các tiêu chí trên, tương ứng với 574 chu kỳ điều trị riêng lẻ. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm dựa trên số lượng phôi bào ngày 3 hình thành phôi nang chuyển: Nhóm A (≤6 tế bào, n = 66 chu kỳ), Nhóm B (7-9 tế bào, n = 381 chu kỳ) và Nhóm C (≥10 tế bào, n = 127 chu kỳ). Thứ tự chuyển được ưu tiên dựa trên phân loại phôi nang cho từng bệnh nhân.
So sánh kết quả mang thai giữa ba nhóm cho thấy tỷ lệ phôi nang độ 5 trở lên ở nhóm C (≥10 tế bào) lớn hơn đáng kể so với nhóm A và B (χ2 = 9,099, P = 0,011). Không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy trong tỷ lệ phôi nang độ 3 và 4 giữa các nhóm (χ2 = 4,413, P = 0,110; χ2 = 0,554, P = 0,758). Nhóm C cũng có tỷ lệ phôi nang ngày 5 cao hơn đáng kể so với nhóm A và B (χ2 = 59,615, P = 0,000), trong khi nhóm A có tỷ lệ phôi nang ngày 6 cao hơn đáng kể so với nhóm B và C (χ2 = 59,615, P = 0,000). Tỷ lệ mang thai lâm sàng không khác biệt đáng kể giữa các nhóm (χ2 = 1,344, P = 0,511). Tương tự, không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về tỷ lệ đa thai (χ2 = 0,196, P = 0,906) hoặc tỷ lệ làm tổ (χ2 = 1,344, P = 0,511). Tỷ lệ sảy thai ở nhóm B cao hơn đáng kể so với nhóm A và C (χ2 = 7,464, P = 0,024). Cuối cùng, tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (χ2 = 3,299, P = 0,194).
Những phát hiện của nghiên cứu này chứng minh rằng số lượng phôi bào ngày 3 ảnh hưởng đáng kể đến giai đoạn phát triển và tuổi phôi của phôi nang. Phôi ngày 3 với số lượng phôi bào cao hơn có xu hướng phát triển thành phôi nang chất lượng cao sớm hơn, đặc biệt là vào ngày thứ 5 và đạt được chất lượng phôi nang tốt hơn. Bằng cách tối ưu hóa tuổi phôi, lựa chọn phôi nang ở các giai đoạn khác nhau và tinh chỉnh các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung có khả năng tăng cường tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống.
Nguồn: Li X, Zeng Y, Zhu L, Yang Z, Luo Y, Jia JL. The association between pregnancy outcomes and frozen-thawed embryo transfer cycles based on D3 cell count in high-quality blastocysts. Front Endocrinol (Lausanne). 2024 Oct 18;15:1464313. doi: 10.3389/fendo.2024.1464313. PMID: 39493775; PMCID: PMC11527635.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỉ lệ sinh sống tăng theo độ tuổi giữa chu kỳ chuyển phôi đông lạnh đầu tiên so với chuyển phôi tươi trong chu kỳ ART đầu tiên không có thực hiện PGT - Ngày đăng: 19-11-2024
Association between body mass index, weight loss and the chance of pregnancy in women with polycystic ovary syndrome and overweight or obesity: a retrospective cohort study in the UK - Ngày đăng: 16-01-2023
Giải thưởng Alexandre Yersin cho công bố Y khoa xuất sắc - Ngày đăng: 28-07-2022
Điều trị vô sinh, bác sĩ cần “song kiếm hợp bích” - Ngày đăng: 29-11-2021
Chương trình Ươm mầm hạnh phúc 2021 "Khi thiên thần cũng có ước mơ" - Ngày đăng: 19-11-2021
Bác sĩ Việt tìm 'đáp án' kỹ thuật tiêm tinh trùng chữa vô sinh - Ngày đăng: 03-05-2021
Bác sĩ lý giải vì sao nên kết hôn để sinh con trước 30 tuổi - Ngày đăng: 06-05-2020
Buồng trứng đa nang và cơ hội mang thai - Ngày đăng: 28-10-2019
Kết cục điều trị hỗ trợ sinh sản ở nhóm phụ nữ trên 40 tuổi - Ngày đăng: 24-02-2017
Cách tính thời điểm 'yêu' dễ có thai - Ngày đăng: 05-12-2016
Chương trình Ươm Mầm Hạnh Phúc lần III, 2016-2017 - Ngày đăng: 10-10-2016
10 lời khuyên phòng tránh dị tật thai nhi - Ngày đăng: 28-09-2016
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK